Oliver Patric Neuville ( Phát âm tiếng Đức: [ˈɔlivɐ nøːvil] , sinh ngày 1 tháng 5 năm 1973) là một cựu cầu thủ bóng đá người Đức thi đấu ở vị trí tiền đạo. Cùng tìm hiểu về tiểu sử, sự nghiệp và những thành tích mà Neuville đã đạt được trong bài viết Oliver Neuville là ai sau đây nhé.
Tiểu sử Oliver Neuville
Mục lục
Họ và tên | Oliver Patric Neuville | ||
---|---|---|---|
Ngày sinh | 1 tháng 5 năm 1973 (50 tuổi) | ||
Nơi sinh | Locarno , Thụy Sĩ | ||
Chiều cao | 1,71 m (5 ft 7 in) | ||
(Các) vị trí | Tiền đạo |
Trong sự nghiệp chuyên nghiệp kéo dài 18 năm, anh chủ yếu chơi cho Bayer Leverkusen (năm mùa) và Borussia Mönchenladbach (sáu), ghi tổng cộng 334 trận ở Bundesliga và ghi 91 bàn thắng. Neuville xuất hiện gần 70 lần cho đội tuyển quốc gia Đức trong suốt một thập kỷ, đại diện cho Đức ở hai kỳ World Cup và tại Euro 2008 .
Sự nghiệp thi đấu câu lạc bộ
Theo các chuyên gia bóng đá của Xôi lạc thì Neuville sinh ra ở Locarno , Thụy Sĩ, có cha là người Đức gốc Aachen và mẹ là người Thụy Sĩ gốc Ý, Neuville bắt đầu sự nghiệp chuyên nghiệp của mình với Servette FC. Chỉ trong mùa giải thứ hai ởSwiss Super League , anh đã ghi được 16 bàn thắng đẹp nhất sự nghiệp. giúp CLB giành chức vô địch quốc gia sau 9 năm chờ đợi.
Vào năm 1996–97 , Neuville chơi ở Tây Ban Nha với CD Tenerife , nơi anh là một phần của hàng tấn công cân bằng có sự góp mặt của Juanele (tám bàn), Meho Kodro (sáu), Antonio Pinilla (bảy) và Aurelio Vidmar (một) , ghi 5 bàn sau 1.885 phút giúp đội bóng Quần đảo Canary dễ dàng giữ vững vị thế La Liga , đồng thời đóng vai trò tương đối quan trọng trong trận bán kết UEFA Cup của họ. Sau đó, anh chuyển đến Đức và ký hợp đồng với FC Hansa Rostock , ghi 8 bàn chỉ sau 17 trận trong chiến dịch ra mắt ở Bundesliga , khi đội bóng đến từ Đông Đức cũ đứng thứ sáu.
Neuville ký hợp đồng với Bayer 04 Leverkusen vào mùa hè năm 1999, nhanh chóng trở thành nhân vật tấn công quan trọng cho câu lạc bộ mới của anh ấy. Anh ghi tổng cộng 28 bàn thắng từ năm 2000 đến năm 2002 (bao gồm cú hat-trick vào lưới Hamburger SV vào ngày 24 tháng 11 năm 2001), đồng thời ghi thêm 5 bàn trong 15 lần ra sân tại UEFA Champions League 2001–02 , khi Bayer đứng thứ hai sau Real Madrid (anh ấy ghi mỗi người một bàn trong cả hai lượt trận bán kết với Manchester United ); câu lạc bộ cũng đứng thứ hai trong giải đấu trong khoảng thời gian này.
Ở tuổi 31, Neuville gia nhập Borussia Mönchenladbach mùa giải 2004–05 , theo dạng chuyển nhượng tự do . Vào ngày 17 tháng 10 năm 2004, anh ghi một bàn thắng khét tiếng bằng tay vào lưới 1. FC Kaiserslautern trong chiến thắng 2–0 trên sân nhà, bị chỉ trích rộng rãi và khiến anh bị cấm thi đấu hai trận. Anh ấy đã ghi 22 bàn thắng trong hai mùa giải đầu tiên của mình cộng lại, nhưng hiếm khi xuất hiện khi Foals tụt hạng vào năm 2007 , chủ yếu là do chấn thương.
Neuville trở lại phong độ vào mùa giải 2007–08 , ghi 15 bàn thắng giúp Borussia trở lại vị trí dẫn đầu ngay sau chiến dịch, thành tích tốt thứ sáu của giải đấu. Anh xuất hiện lần cuối tại Bundesliga vào ngày thi đấu cuối cùng của mùa giải 2009–10 , gặp đội bóng cũ Bayer Leverkusen. Theo kế hoạch, Neuville sẽ bắt đầu làm huấn luyện viên đội trẻ cho Borussia Mönchenladbach. Thay vào đó, anh quyết định thi đấu thêm một năm và ký hợp đồng với Arminia Bielefeld ở giải hạng 2. Bundesliga . Tuy nhiên, chỉ sau vài tháng, anh đã rời đi theo sự đồng ý của cả hai, nghỉ hưu ở tuổi 37.
Sự nghiệp thi đấu quốc tế
Sau khi được chọn làm đại diện cho Đức ở cấp độ quốc tế, Neuville có trận ra mắt quốc tế vào ngày 2 tháng 9 năm 1998 trước Malta , trong một trận giao hữu , thay thế Mario Basler trong mười lăm phút cuối cùng của chiến thắng 2-1 trên sân khách. Trong những tháng đầu tiên tập luyện với đội tuyển quốc gia, anh ấy cần một thông dịch viên để hiểu thông điệp của huấn luyện viên Erich Ribbeck , đồng thời truyền tải thông điệp của ông ấy. Sau đó, Neuville có 69 lần khoác áo đội tuyển với 10 bàn thắng. Anh được chọn vào đội tuyển về nhì tại FIFA World Cup 2002 , ghi bàn thắng duy nhất của trận đấu trong chiến thắng ở vòng 16 đội trước Paraguay .
Những fan hâm mộ thích xem trực tiếp bóng đá hôm nay cho biết sau khi không được chọn tham dự UEFA Euro 2004 , trong trận đấu vòng bảng thứ hai của World Cup 2006 với Ba Lan , Neuville, người thay thế Lukas Podolski , đã thực hiện một quả tạt tuyệt vọng ở phút bù giờ của cầu thủ dự bị David Odonkor , đánh bại thủ môn Artur Boruc trên đường đi đến chiến thắng 1–0. Anh đã không ghi bàn cho đội tuyển quốc gia cho đến ngày 31 tháng 5 năm 2008, khi anh thực hiện đường chuyền của Marcell Jansen trong trận khởi động ở Euro 2008 trước Serbia . xuất hiện ở giai đoạn cuối của giải đấu trong trận đấu bảng B với Áo với tư cách là người vào sân thay người muộn, và giã từ sự nghiệp thi đấu quốc tế ở tuổi 35.
Cuộc sống cá nhân của Neuville
Cùng với Bernd Schneider , Neuville là một trong hai cầu thủ hút thuốc nổi tiếng ở đội tuyển quốc gia Đức. Tên của anh ấy (phát âm đúng trong tiếng Pháp – không phải tiếng Đức – thời trang) bắt nguồn từ ông nội người Bỉ của anh ấy. Năm 1997, Neuville có con trai Lars-Oliver.
Danh hiệu và thành tích
Servette
- Giải VĐQG Thụy Sĩ : 1993–94
Bayer Leverkusen
- Á quân UEFA Champions League : 2001–02
- Á quân DFB-Pokal : 2001–02
Borussia Mönchengladbach
- 2. Bundesliga : 2007–08
Đội tuyển Đức
- Á quân FIFA World Cup : 2002 ; Vị trí thứ ba năm 2006
- Á quân giải vô địch châu Âu UEFA : 2008
- Hạng ba FIFA Confederations Cup : 2005
Với bài viết về Oliver Neuville là ai cho thấy Neuville không chỉ ghi dấu ấn trong các đội bóng câu lạc bộ mà còn đóng góp lớn cho đội tuyển quốc gia. Với lòng tận tâm cao cả, anh đã đưa đội tuyển của mình đến những vị thế cao nhất.